Một số khó khăn, vướng mắc, bất cập trong công tác xử phạt vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và những kiến nghị khắc phục

04/05/2015 00:41 View Count: 957
 Qua tổng hợp tình hình vi phạm hành chính và kết quả công tác xử phạt vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh thời gian qua, nổi lên một số khó khăn, vướng mắc và bất cập:

 Một là, còn một số quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính chưa rõ ràng, chồng chéo gây lúng túng cho các cơ quan có thẩm quyền áp dụng. Ví dụ, về nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính: cùng một hành vi vi phạm mà hành vi này xảy ra tại nhiều thời điểm khác nhau nhưng chưa bị phát hiện, khi phát hiện ra hành vi vi phạm sẽ xử phạt 1 lần và áp dụng tình tiết tăng nặng (điểm b, khoản 1, Điều 10) hay xử phạt 1 hành vi vi phạm theo từng thời điểm xảy ra hành vi vi phạm ( điểm d, khoản 1, Điều 3). Luật quy định về tình tiết tăng nặng nhưng chưa có hướng dẫn thế nào là quy mô lớn (khoản 1, Điều 10); chưa có quy định, hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện việc bổ sung, hủy bỏ, ban hành quyết định mới như thế nào (khoản 3, Điều 18). Về mức phạt tiền: Theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 38 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì “Phạt tiền đến 10% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại ĐIều 24 của Luật này nhưng không quá 5.000.000 đồng” và tại điểm b, khoản 2 Điều 38 Luật Xử lý vi phạm hành chính “Phạt tiền đến 50% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật này nhưng không quá 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên, khoản 2, Điều 67 Nghị định số 121/2013/NĐ-CP quy định Chủ tịch UBND cấp xã có quyền “Phạt tiền đến 10.000.000 đồng” và khoản 2 Điều 68 Nghị định số 121/2013/NĐ-CP thì Chủ tịch UBND cấp huyện có quyền “Phạt tiền đến 100.000.000 đồng”. Mâu thuẫn này gây khó khăn cho việc áp dụng, vì trên thực tế không biết nên áp dụng theo Luật hay Nghị định;

 

Hai là, Một số hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp không được quy định trong Nghị định 110/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã nên không có căn cứ để xử phạt vi phạm hành chính;

 

Ba là, Trong thực tế, nhiều hành vi vi phạm hành chính trong ngành tư pháp được cán bộ, công chức, viên chức trong khi thi hành công vụ phát hiện nhưng chỉ nhắc nhở mà không tiến hành lập biên bản vi phạm và chuyển hồ sơ cho người có thẩm quyền xử lý nên tính răn đe còn hạn chế, không bảo đảm nguyên tắc mọi hành vi vi phạm hành chính được phát hiện phải được xử lý kịp thời.

 

Bốn là, Số lượng người tham gia lực lượng thanh tra còn hạn chế, trong khi lĩnh vực quản lý nhà nước của Ngành Tài nguyên và Môi trường rộng, đa ngành nên chưa đáp ứng kịp thời thực tiễn đặt ra trong công tác thanh tả, kiểm tra. Vì vậy, công tác xử lý vi phạm hành chính chưa được nhiều.

 

Năm là, Tính hiệu lực trong việc chấp hành các quyết định xử phạt hành chính còn thấp. Nguyên nhân do ý thức chấp hành pháp luật của các đối tượng vi phạm chưa nghiêm túc, trong khi đó chế tài áp dụng khi cưỡng chế vừa thiếu, vừa bất cập. Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật trên thực tế thực hiện rất khó khăn.

 

Sáu là, Trong lĩnh vực giao thông vận tải, đối tượng vi phạm hành chính chủ yếu là người điều kiển phương tiện ở địa phương khác nên gây ra khó khăn cho việc xử lý vi phạm hành chính đúng thời hạn quy định.

 

Bẩy là, Công tác phối hợp giữa các ngành, địa phương trong triển khai công tác theo dõi thi hành pháp luật đôi lúc chưa chặt chẽ; tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ tham gia vào công tác theo dõi còn thiếu và yếu, lực lượng cán bộ pháp chế tại các sở ngành và doanh nghiệp còn thiếu, phải kiêm nhiệm; năng lực trình độ nhất là khả năng phân tích, dự báo, xây dựng chính sách, kỹ năng soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật hay xây dựng một thiết chế thi hành pháp luật còn nhiều bất cập; khả năng tổ chức thực hiện, áp dụng pháp luật của một bộ phận đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước còn hạn chế.

 

Tám là, Trong lĩnh vực xây dựng, quá trình thực hiện xử lý vi phạm hành chính còn có một số khó khăn, vướng mắc sau: Thứ nhất, một số doanh nghiệp có trự sở đăng ký không rõ ràng hoặc thay đổi địa chỉ đăng ký hoạt động nên khi gửi quyết định xử phạt vi phạm hành chính không đến nơi hoặc bị thất lạc. Thứ hai, một số trường hợp khi cơ quan Thanh tra gửi Giấy mời đại diện tư cách pháp nhân đơn vị đến làm việc để lập biên bản vi phạm hành chính nhưng đơn vị lại cử cán bộ không đủ tư cách pháp nhân hoặc không có Giấy ủy quyền đến làm việc nên không đủ điều kiện làm việc. Thứ ba, trường hợp cố tình dây dưa, không thực hiện quyết định xử phạt nhưng khó áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt theo điều 86, Luật Xử lý vi phạm hành chính do sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan còn hạn chế nên công tác đôn đốc thực hiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính còn gặp nhiều khó khăn.

 

Chín là, Trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư, các đối tượngn là doanh nghiệp được thanh tra, kiểm tra không có thái độ hợp tác với đoàn kiểm tra, nhưng không có chế tài phù hợp để xử lý. Việc đôn đốc các đối tượng được thanh tra, kiểm tra thực hiện các kết luận sau thanh tra, kiểm tra còn gặp nhiều khó khăn.

 

Mười là, Công tác xử lý vi phạm hành chính ở một số đơn vị chưa được quan tâm thường xuyên, đúng mức, chưa được cụ thể hóa bằng văn bản của cơ quan, đơn vị mình, chính vì vậy chưa rõ trách nhiệm của cấp, ngành để kiểm tra, giám sát việc thực hiện.

 

Về kiến nghị, đề xuất những chủ trương, giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác xử phạt vi phạm hành chính, góp phần giảm thiểu và ngăn ngừa các vi phạm hành chính:

 

Thứ nhất, Cơ quan có thẩm quyền cần quy định rõ trách nhiệm cả cán bộ, công chức, viên chức trong khi thi hành công vụ phát hiện nhưng không tiến hành lập biên bản và chuyển hồ sơ cho người có thẩm quyền xử lý. Đồng thời, cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực Tư pháp cần thường xuyên tuyên truyền về pháp luật xử lý vi phạm hành chính đối với cán bộ, công chức, viên chức trong khi thi hành công vụ để khi phát hiện các hành vi vi phạm cán bộ, công chức, viên chức phải kịp thời lập biên bản vi phạm và chuyển hồ sơ cho người có thẩm quyền xử lý;

 

Thứ hai, Xây dựng văn bản quy định chế tài xử lý thực hiện kết luận sau thanh tra, kiểm tra; tiếp tục đầu tư kinh phí, trang thiết bị, công cụ hỗ trợ phục vụ tuần tra, kiểm soát của các lực lượng chức năng, đáp ứng yêu cầu đấu tranh ngăn chặn vi phạm hành chính.

 

Thứ ba, Tăng cường bộ máy làm công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính nhằm đáp ứng kịp thời thực tiễn đặt ra trong công tác thanh tra, kiểm tra.

 

Thứ tư, Tăng cường sự phối kết hợp giữa các cơ quan có liên quan trong việc xử lý vi phạm hành chính, nhất là việc đôn đốc thực hiện các quyết định xử phạt, đảm bảo cho việc xử lý vi phạm hành chính có hiệu quả, nâng cao tính hiệu lực của pháp luật.

 

Thứ năm, Kiến nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính và các cơ quan xây dựng Đề án về tổ chức bộ máy, biên chế, kinh phí và cơ sở vật chất để thành lập bộ phận thực hiện công tác thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính (như thi hành án của bên Tư pháp) để đảm bảo việc thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính có hiệu quả và thống nhất.

Sở Tư Pháp
Source: BBN