Những khó khăn trong thực tiễn thi hành Bộ Luật tố tụng dân sự thời gian qua và hướng khắc phục

28/09/2023 09:57 Số lượt xem: 167

Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Đến nay, bên cạnh những ưu điểm, tác dụng, việc thi hành Bộ luật cũng đã bộc lộ những khó khăn, vướng mắc cần được khắc phục, làm cơ sở cho việc sửa đổi, hoàn thiện Bộ luật trong thời gian tới.

1. Về phần thứ nhất của Bộ luật: Những quy định chung

a) Về chứng minh, chứng cứ:

Điều 7 Bộ luật TTDS quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát theo quy định của Bộ luật này và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát”. Thực tế, việc thi hành quy định tại Điều 7 còn nhiều khó khăn bởi việc phối hợp giữa UBND, Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án, các sở, ban, ngành liên quan trong việc xác minh thu thập, đánh giá chứng cứ... còn thiếu chặt chẽ.  

Khoản 3 Điều 106 Bộ luật TTDS quy định:

“Trường hợp có yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; hết thời hạn này mà không cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án thì cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu của Tòa án mà không có lý do chính đáng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”.

Trên thực tế, việc yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác cung cấp tài liệu, chứng cứ còn gặp nhiều khó khăn. Ví dụ, khi yêu cầu tổ chức tín dụng cung cấp số tài khoản, số dư tài khoản, sao kê các lệnh chuyển và nạp tiền vào tài khoản của đương sự… thường bị từ chối bởi tổ chức tín dụng cho rằng việc cung cấp những thông tin trên là vi phạm nguyên tắc bảo mật thông tin tài khoản cho khách hàng. Bên cạnh đó, quy định trên cũng chưa làm rõ “lý do chính đáng” để cơ quan, tổ chức, cá nhân căn cứ vào đó từ chối việc cung cấp tài liệu, chứng cứ là những lý do như thế nào, nên rất dễ xảy ra nhiều quan điểm trái ngược nhau về sự “chính đáng” của lý do từ chối cung cấp tài liệu, chứng cứ. Cũng chính vì thế, các cơ quan, tổ chức, cá nhân đang giữ tài liệu, chứng cứ nếu muốn từ chối hoặc kéo dài thời gian cung cấp thì có thể tạo ra nhiều lý do khác nhau mà cơ quan có thẩm quyền cũng khó xử phạt hành chính hay truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp này.

Đối với quy định về bảo vệ chứng cứ:

Khoản 1 Điều 110 Bộ luật TTDS năm 2015 quy định: “Trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được thì đương sự có quyền đề nghị Tòa án quyết định áp dụng biện pháp cần thiết để bảo toàn chứng cứ. Đề nghị của đương sự phải thể hiện bằng văn bản. Tòa án có thể quyết định áp dụng một hoặc một số trong các biện pháp niêm phong, thu giữ, chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phục chế, khám nghiệm, lập biên bản và các biện pháp khác”. Đây là quy định cần thiết nhằm bảo đảm sự tồn tại toàn vẹn của chứng cứ. Tuy nhiên, nếu trong trường hợp khi phát hiện chứng cứ đang bị tiêu hủy, tức là hành động tiêu hủy chứng cứ đang được diễn ra mà đương sự chỉ có thể đề nghị Tòa án bằng văn bản thì rất nhiều khả năng chứng cứ đó đã bị tiêu hủy, không còn trên thực tế và như vậy thì chứng cứ đã

không được bảo vệ như mục đích của điều luật. Đề nghị có quy định về vấn đề này.

b) Về các biện pháp khẩn cấp tạm thời:

Điều 122 Bộ luật TTDS 2015 quy định về  cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp:

“Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tháo gỡ, lắp ghép, xây dựng thêm hoặc có hành vi khác làm thay đổi hiện trạng tài sản đó.”

Với quy định này, tài sản đang tranh chấp và đang trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tháo gỡ, lắp ghép, xây dựng thêm hoặc có hành vi khác làm thay đổi hiện trạng tài sản đó thì bị nghiêm cấm thay đổi hiện trạng. Tuy nhiên thực tế nhiều vụ án khi đang trong quá trình giải quyết vụ án bản thân người đang quản lý, chiếm giữ tài sản tranh chấp đã thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp mặc dù phía bên kia có đề nghị thẩm phán, người có thẩm quyền can thiệp nhưng không có chế tài cụ thể, vì vậy sau khi có thông báo của người có thẩm quyền nghiêm cấm người đang quản lý tài sản tranh chấp không được tự ý thay đổi hiện trang tài sản đang tranh chấp, một thời gian sau họ lại thực hiện thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp. Do đó cần có chế tài cụ thể để người quản lý, chiếm giữ tài sản đang tranh chấp không được thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp.

c) Về hành vi từ chối khai báo khi làm chứng:

Khoản 3 Điều 78 Bộ luật TTDS 2015 quy định người làm chứng được từ chối khai báo nếu lời khai của mình liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình hoặc việc khai báo đó có ảnh hưởng xấu, bất lợi cho đương sự là người có quan hệ thân thích với mình.

Khoản 2 Điều 489 Bộ luật TTDS 2015 quy định từ chối khai báo, khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật khi làm chứng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm  mà có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Như vậy, Bộ luật TTDS quy định những trường hợp được quyền từ chối khai báo nhưng điều luật về xử lý hành vi này lại không loại trừ trường hợp ngoại lệ.

Quyền và nghĩa vụ của người làm chứng cơ bản đã được ghi nhận tại Điều 78 của Bộ luật TTDS 2015. Mọi quyết định có liên quan đều không được vi phạm quyền mà họ được quy định. Việc xử lý hành vi từ chối khai báo của người làm chứng phải loại trừ trường hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 78 của Bộ luật TTDS 2015. Hai điều luật cùng Bộ luật (Điều 78 và Điều 489) có nội dung không thống nhất. Vì vậy, cần sửa đổi nội dung điều 489 Bộ luật TTDS 2015 theo hướng loại trừ việc xử lý trách nhiệm của người làm chứng trong trường hợp tại khoản 3 Điều 78 Bộ luật này.

2. Về phần thứ hai của Bộ luật- Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm

a) Về yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

Theo khoản 3 Điều 200 Bộ luật- Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn quy định: Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Khoản 2 Điều 201 Bộ luật - Quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan quy định: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Với quy định trên, việc bị đơn có yêu cầu phản tố và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập phải cung cấp cho thẩm phán được phân công trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Tuy nhiên, trên thực tế nhiều vụ án dân sự thẩm phán được phân công giải quyết tiến hành m phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải bằng nhiều lần tức ít nhất từ hai lần trở lên, trừ trường hợp một bên đương sự có yêu cầu không tiếp tục mở phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải. Bên cạnh đó, không có điều luật quy định việc tổ chức tiếp cận công khai chứng cứ phải tổ chức cụ thể bao nhiêu lần và sau những lần đó mà bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập thì không được thụ lý. vậy, với lý do này nhiều thẩm phán đã cố ý không tiếp nhận yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập của bị đơn hay của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Với hạn chế nêu trên đề nghị cần bổ sung điều luật cụ thể hơn việc bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu phản tố hay yêu cầu độc lập phải nộp trước phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải lần đầu hay lần cuối cùng, từ đó mới đảm bảo được việc giải quyết vụ án một cách triệt để.

Từ thực tiễn trên, đề nghị cấp có thẩm quyền có những sửa đổi, bổ sung các hạn chế của điều luật mà điều luật đó mới chỉ quy định chung chung, chưa cụ thể rõ ràng để từ đó người được giao có thẩm quyền giải quyết sẽ thực hiện giải quyết vụ án dân sự được thông suốt, dễ thực hiện hơn, phù hợp với thực tế.

                                                                                               Trần Thị Tích

                                                                               Sở Tư pháp